Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

An Dật Viên - Kế Võ

















Kính tặng
Bào huynh Nguyệt Đình

Nửa gánh văn chương nửa gánh tình
Nửa đời tròn hiếu nghĩa nhân sinh
Tô bồi rạng rỡ gia phong Kế
Vun đắp vững vàng hạnh phúc Đinh
Ngoạn cảnh ung dung thơ mấy túi
Làm ăn tín nghĩa tiếng cùng dinh
Văn chương nửa gánh, tình tròn gánh
Mấy ý thơ, thơ kính Nguyệt Đình
Huế 1986
Miên Như

Đáp họa Miên Như
Thư hương un đúc nghĩa ân tình
Nặng gánh cương thường đạo dưỡng sinh
Tiếc chẳng đài son trên độn Kế
Hận không tháp ngọc giữa vườn Đinh
Tài hèn khó nỗi xây lầu các
Sức yếu khôn bề chuyển phủ dinh
Gửi tấm lòng thành lên ngọn bút
Rằng thơ mấy vận tán bi đình
Nguyệt Đình

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

Thị hiếu trọc phú đang phát triển

Trich từ báo Tuổi trẻ ngày 7/6/2011
Cuộc tranh đoạt làm lú lẫn tâm hồn......

Người Việt mất một nghìn năm để tôi luyện những thửa ruộng bờ xôi ruộng mật có thể cấy trồng lúa nước quanh năm. Chúng ta đơn giản đền bù tí chút cho nông dân rồi san lấp làm nhà máy và sân golf. Tất cả những dòng sông chảy trên đất Việt người ta có thể tắm bơi, giặt giũ, đánh cá... từ thượng cổ cho đến những năm 1970 thì chỉ vài chục năm sau đó chết dần và không ai dám lội xuống nước nữa.
Rất có thể chúng ta tiến đến một xã hội có kinh tế phát đạt nhưng không có văn minh và văn hóa hoặc rất thấp, cái nghịch cảnh này dễ thường đẩy chúng ta xuống toa vét của chuyến tàu nhân loại... Việc phát triển công nghiệp đến từng huyện, khiến cho các khu công nghiệp xen kẽ vào khu dân cư toàn diện, dẫn đến ô nhiễm tất cả và xáo trộn sinh hoạt tất cả... Nếu chủ trương lấy 10-12% đất địa phương làm công nghiệp thì có nghĩa nông thôn mất gần hết ruộng đất, vì đất canh tác cũng chỉ chiếm 1/3 đất thổ canh thổ cư nói chung.
Các làng xã cổ Việt Nam luôn có xu hướng bám theo các dòng sông, khi công nghiệp bám theo làng, thì có nghĩa nước thải công nghiệp cũng tuôn trực tiếp ra sông. Mất ruộng không có nghĩa là người nông dân trở thành công nhân cho các nhà máy, họ chưa bao giờ có kỹ năng và trình độ vào sản xuất ngay, nên một quá trình đô thị hóa bất đắc dĩ bắt đầu với những nông dân thất nghiệp hoàn toàn.
Khi đoạn tuyệt với thổ mộc và phương thức sống tự cung tự cấp, được coi là lạc hậu, nông dân mất hết các kỹ năng sinh tồn truyền thống. Các thầy lang, thầy đồ, thầy cúng, bà mụ... cũng lần lượt ra đi, các trò chơi dân gian cũng tan biến trong thế giới đồ chơi mới.
Người nông dân xưa biết đánh gió, nhặt lá xông giải cảm, tự chữa đau bụng, đầy hơi, ghẻ lở, viêm thận, viêm loét dạ dày, gãy xương... bằng các phương thuốc truyền thống phổ cập. Nhưng hiện tại họ là những người mù tịt về y học dù sơ đẳng... Cố gắng vươn lên thế giới vật chất như người thành phố, ở nông thôn từng gia đình đã có xe máy, tủ lạnh, tivi, quạt máy, thậm chí ôtô, và các máy móc nông cụ...
Có cả một ngành sản xuất hàng tiêu dùng giá rẻ chất lượng thấp cho nông thôn. Nhập ngoại là hàng biên giới Trung Quốc, nội là hàng do chính các tổ hợp sản xuất nông thôn tự phát và trốn thuế. Quần áo hàng chợ, xe công nông tự lắp, bia hơi tự nấu, nước giải khát pha chế bằng hóa chất, bánh kẹo thứ phẩm.
Ngược lại nông thôn cũng tuồn ra thành phố những hàng hóa chết người của mình. Đó là thịt gia súc nuôi bằng thức ăn tăng trọng, rau hoa quả biến đổi gien và tắm tưới với thuốc bảo quản thực vật, đúng hơn là thuốc lưu cữu độc hại. Cái giá phải trả trước tiên từ nông thôn khi bệnh ung thư, viêm gan, viêm phổi cấp, huyết áp... rất phổ biến mà trước kia người nông dân không hề biết đến.
Lê Quý Đôn viết: Lưu cái khôn khéo thừa không dùng hết để trả cho tạo hóa, lưu bổng lộc thừa không tiêu dùng hết để trả cho triều đình, lưu tài hóa còn thừa không dùng hết để trả cho bách tính, lưu phúc trạch còn thừa không hưởng thụ hết để trả cho con cháu (Kiến văn tiểu lục, Châm cảnh).
Xu hướng chung của người Việt hiện tại là làm thật nhiều của cải tiền bạc cho mình và cho con cháu... Nhưng cái phương thức để lại của cải cho con cháu bằng tiền mặt như hiện nay thật là có vấn đề... Một cuộc tranh đoạt và rượt đuổi theo tiền đang diễn ra với tốc độ chóng mặt làm lú lẫn hết mọi tâm hồn. Đó không phải là cách lưu phúc trạch cho con cháu. Vì lao động của chúng ta không tạo ra thu nhập lớn thế, vì rất nhiều tiền của thu được là bất chính và cái giá phải trả của kho trời đất sẽ hết sạch trong tương lai gần.
Trích Văn minh vật chất của người Việt

“Khi tôi viết những trang cuối cùng của cuốn sách này cũng là lúc người Việt đang sôi lên vì kiếm tiền, kiếm việc làm và mua sắm bất tận. Hằng ngày tôi ngồi ở một quán nước ngoài đường và nhìn những dòng xe lúc chạy rầm rầm đến chóng cả mặt, lúc chen chúc nhau đến mức người và xe lèn đầy đường không thể đi được nữa trong hàng giờ.
Tôi tự hỏi vì sao người ta ra đến nông nỗi này, vì sao vật chất mà ta sử dụng không còn có ý nghĩa văn minh nữa mà chỉ là một đồ vật hữu dụng thuần túy. Xưa kia người theo học thuyết Lão Trang cho rằng cơ giới sẽ sinh ra cơ tâm, càng nhiều phương tiện con người càng xa với bản thể của mình. Những người theo Phật Thích Ca thì mặc áo nột tử trên người chỉ có mỗi cái bát khất thực.
Nhưng ngay cả tôn giáo ngày nay cũng thay đổi, các nhà tu hành đi ôtô, dùng vi tính và ăn mặc rất sang trọng thì chúng sinh tại sao lại phải khổ hạnh. Cái lý tưởng xã hội thời Nghiêu Thuấn, đi ngủ không nhà nào đóng cửa, ra đường không ai nhặt của rơi có lẽ đã quá xa vời như quá khứ của con người vậy”.
PHAN CẨM THƯỢNG